Hàng loạt vấn đề về tái cơ cấu, xử lý nợ xấu trong 5 năm qua của ngành ngân hàng, các giải pháp cần thực hiện sau Covid-19, sẽ được đề cập một cách cụ thể qua nội dung các bài trình bày của dàn diễn giả uy tín và các phiên thảo luận chuyên sâu tại Diễn đàn Toàn cảnh ngân hàng 2020 (Vietnam Banking Forum 2020”).
Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online sẽ tường thuật trực tuyến Diễn đàn Toàn cảnh ngân hàng 2020: “Tái cơ cấu, xử lý nợ xấu: Kết quả và khuyến nghị chính sách”, bắt đầu từ lúc 8 giờ 30 sáng ngày 30 tháng 9 năm 2020 tại Trung tâm Hội nghị Quốc tế ICC, số 35 Hùng Vương, Ba Đình, Hà Nội.
Vietnam Banking Forum là sự kiện thường niên do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) phối hợp cùng nhóm báo Thời báo Kinh tế Sài Gòn (TBKTSG) tổ chức. Năm nay chủ đề chính của diễn đàn là “Tái cơ cấu, xử lý nợ xấu: Kết quả và khuyến nghị chính sách”.
Diễn đàn dự kiến sẽ có sự tham dự và trình bày của các nhà lãnh đạo cấp cao Ngân hàng Nhà nước, của các vụ, cục thuộc đơn vị này.
Ngoài ra, diễn đàn cũng có các phần trình bày, thảo luận của chuyên gia kinh tế: Ông Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế trưởng BIDV; Ông Trương Thanh Đức, Luật sư, Chủ tịch Hội đồng Thành viên Basico; Ông Phạm Thế Anh, Trưởng Bộ môn kinh tế vĩ mô, Trường đại học Kinh tế Quốc dân; Ông Trần Đăng Phi, Phó Chánh Thanh tra, Cơ quan Thanh tra Giám sát ngân hàng; Ông Đỗ Giang Nam, Phó giám đốc Công ty Quản lý tài sản (VAMC); Ông Phạm Mạnh Thắng, Phó tổng giám đốc Ngân hàng Vietcombank; Ông Nguyễn Thế Huân, thành viên HĐQT Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam (VietinBank); Bà Phạm Thị Trung Hà, Phó tổng giám đốc Ngân hàng TMCP Quân đội (MB)... và nhiều lãnh đạo các cục, vụ của NHNN và các ngân hàng khác.
Tại diễn đàn, các đại biểu Quốc hội chuyên gia, luật sư… sẽ điểm lại 5 năm tái cơ cấu, xử lý nợ xấu, đánh giá những yếu tố trong và ngoài nước tác động đến quá trình cơ cấu lại và xử lý nợ xấu; những kiến nghị, đề xuất, góp ý chính sách cho hoạt động này trong thời gian tới.
Diễn đàn có sự đồng hành của các ngân hàng thương mại: Vietcombank, Vietinbank, BIDV, Agribank, SCB, Nam A Bank, ABBANK, MB, Eximbank...
8 giờ 30:
Phát biểu khai mạc Vietnam Banking Forum 2020, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Kim Anh cho biết trong thời gian qua, tình hình cơ cấu lại và xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng (TCTD) luôn nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Đảng, Quốc hội, Chính phủ và sự vào cuộc của các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội cùng sự quan tâm của đông đảo cử tri, quần chúng nhân dân cả nước. Ngày 21-6-2017, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 42. Đây là Nghị quyết có giá trị pháp lý rất quan trọng khi mà lần đầu tiên, các vấn đề vướng mắc về pháp lý của ngành ngân hàng liên quan đến xử lý nợ xấu và tài sản đảm bảo các khoản nợ của TCTD đã kéo dài nhiều năm qua được giải quyết trong một Nghị quyết của Quốc hội, tạo cơ chế đồng bộ, thống nhất nhằm đảm bảo quyền của chủ nợ trong xử lý nợ xấu.
Theo ông Nguyễn Kim Anh, song song với quá trình xây dựng Nghị quyết của Quốc hội xử lý nợ xấu, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cũng đã tham mưu, trình Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Quyết định số 1058 và Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020. Quyết định số 1058 tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được và những bài học kinh nghiệm thực tế triển khai cơ cấu lại hệ thống các TCTD và xử lý nợ xấu, tập trung vào việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, cơ chế, chính sách, trong s9o1 đặc biệt chú trọng đổi mới mô hình quản trị, điều hành; nâng cao năng lực tài chính, chuyển đổi mô hình kinh doanh theo hướng đa dạng và hiện đại hóa các sản phẩm dịch vụ...
Xác định việc cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu là một trong những nhiệm vụ chính trị trọng tâm của ngành ngân hàng trong suốt giai đoạn 2016-2020, Ngân hàng Nhà nước cũng đã chủ động phối hợp với các bộ, ngành, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các cơ quan có liên quan rà soát để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc , bất cập, xung đột pháp lý giữa hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ngành ngân hàng với hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật khác, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành các văn bản hướng dẫn có liên quan, cụ thể hóa các giải pháp nêu tại Nghị quyết 42 của Quốc hội và Quyết định 1058 của Thủ tướng Chính phủ, bảo đảm tính khả thi và hiệu quả.
Sau một thời gian triển khai trên thực tế, ông Nguyễn Kim Anh cho biết, các giải pháp đồng bộ tại Nghị quyết số 42 và Quyết định số 1058 đã tạo ra những dấu ấn rõ nét và chuyển biến tích cực trong công tác xử lý nợ xấu và cơ cấu lại các TCTD, thể hiện định hướng, chính sách đúng đắn của Quốc hội và Chính phủ, tạo niềm tin với hệ thống các TCTD nói riêng và toàn xã hội nói chung.
Đến nay, về cơ bản, thứ nhất, các TCTD đã không ngừng nỗ lực triển khai phương án cơ cấu lại gắn với xừ lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020 để phấn đấu đạt được các mục tiêu đề ra; thứ hai, sự ổn định, an toàn của hệ thống các TCTD được giữ vững, các TCTD đảm bảo các tỷ lệ, giới hạn an toàn trong hoạt động theo quy định của pháp luật; thứ ba, chất lượng tín dụng của các TCTD được cải thiện, tỷ lệ nội bảng được kiểm soát dưới mức 2%; thứ tư, quy mô tài chính, năng lực quản trị, tính minh bạch trong hoạt động của các TCTD được nâng cao, mở rộng, phù hợp với thông lệ quốc tế; thứ năm, tình trạng sở hữu chéo, đầu tư chéo, cổ đông/nhóm cổ độnglớn, thao túng, chi phối ngân hàng về cơ bản được kiểm soát, xử lý; thứ sáu, công tác thanh tra, giám sát được tăng cường, nâng cao kỷ cương, kỷ luật trên thị trường tiền tệ và lĩnh vực ngân hàng, góp phần ổn định, đảm bảo an ninh tài chính - tiền tệ.
Theo Phó Thống đốc Nguyễn Kim Anh, mặc dù công tác cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu trong thời gian qua đã đặt được kết quả khích lệ, tuy nhiên vẫn còn tồn tại những khó khăn, vướng mắc trong quá trình cơ cấu gắn với xử lý nợ xấu của TCTD. Đó là, việc nâng cao năng lực tài chính thông qua tăng vốn điều lệ nhằm đáp ứng yêu cầu tủ lệ an toàn vốn tối thiểu theo Basel II của một số TCTD, nhất là các ngân hàng thương mại Nhà nước còn khó khăn, tiến độ xử lý cơ cấu lại đối với một số TCTD phi nhân hàng có chủ sở hữu/cổ đông lớn là các tập đoàn/ tổng công ty nhà nước còn chậm, phụ thuộc vào nội dung phương án cơ cấu lại tổng thể của tập đoàn/tổng công ty nhà nước.
Ngoài ra, việc xử lý, thu hồi nợ và TSBĐ của một số TCTD còn khó khăn trong trường hợp tài sản bảo đảm (TSBĐ) cho các khoản nợ bị kê biên, liên quan đến các vụ án, hồ sơ pháp lý chưa hoàn chỉnh. Một số TCTD vẫn gặp khó khăn trong việc thực hiện quyền thu giữ TSBĐ của khoản nợ xấu theo quy định tại Nghị quyết số 42, thực hiện quyền áp dụng thứ tự ưu tiên thanh toán nghĩa vụ về thuế khi xử lý TSBĐ và nộp án phí theo bản án, quyết định của tòa án các cấp…
Bên cạnh đó, sự bùng phát của dịch Covid-19 trong các tháng đầu năm đã ảnh hưởng, tác động không nhỏ đến an toàn hoạt động ngân hàng cũng như kết quả cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu toàn ngành ngân hàng trong giai đoạn 2016-2020.
Thời gian tới, để đảm bảo công tác xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 và công tác cơ cấu lại theo Quyết định 1058 được triển khai có hiệu quả trên thực tế, đồng thời các TCTD tiếp tục pháp huy tốt vai trò là kênh dẫn vốn chủ đạo và đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế, đặc biệt trong bối cảnh diễn biến phức tạp của dịch bệnh, NHNN sẽ tiếp tục phối hợp với các bộ, ban, ngành có liên quan đề xuất chính phủ các giải pháp để giải quyết dứt điểm những khó khăn vướng mắc về cơ chế cũng như trong thực tế áp dụng Nghị quyết 42; xem xét, nghiên cứu việc luật hóa xử lý nợ xấu nhằm quy định cụ thể về việc xử lý nợ xấu, xử lý TSBĐ của khoản nợ xấu của toàn hệ thống ngân hàng, nâng cao vai trò, năng lực của VAMC và tạo động lực cho các TCTD xử lý nợ xấu đạt hiệu quả; xây dựng Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2021-2025 tiếp tục nâng cao năng lực cạnh tranh, năng lực tài chính và quản trị điều hành của các TCTD, hỗ trợ các TCTD trong việc xử lý hiệu quả nợ xấu của nền kinh tế.
Để triển khai thành công các giải pháp cơ cấu lại hệ thống các TCTD và xử lý nợ xấu, đạt được các mục tiêu đề ra, tạo chuyển biến tích cực trong hoạt động của các TCTD cũng như hoạt động tiền tệ, ngân hàng, ngoài sự hỗ trợ của NHNN và các TCTD, VAMC, cần có sự phối hợp tích cực của ác bộ, ngành chính quyền địa phương, sự chung tay của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội nhằm tăng cường hơn nữa vai trò và sự đóng góp của ngành ngân hàng đối với phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội.
Tiếp nối bài phát biểu của Phó Thống đốc Nguyễn Kim Anh, ông Trần Đăng Phi, Phó Chánh Thanh tra, Cơ quan Thanh tra, giám sát Ngân hàng Nhà nước, đã báo cáo kết quả thực hiện Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020” theo Quyết định 1058/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và triển khai Nghị quyết 42 của Quốc hội.
Theo ông Trần Đăng Phi, qua quá trình tổng kết, đánh giá kết quả xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) theo Quyết định số 843/QĐ-TTg ngày 31-5-2013, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) nhận thấy cơ chế, chính sách còn nhiều bất cập, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho TCTD, Công ty Quản lý tài sản (VAMC) xử lý nợ xấu. Chính vì vậy, việc Quốc hội ban hành Nghị quyết số 42 ngày 21-6-2017 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng đã khắc phục các tồn tại, hạn chế, tạo khuôn khổ pháp lý thống nhất và đồng bộ; tháo gỡ những khó khăn vướng mắc, hỗ trợ các TCTD trong việc xử lý hiệu quả, dứt điểm nợ xấu.
Cùng với đó, xuất phát từ thực tiễn, đồng thời tiếp nối và kế thừa Quyết định số 254/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011-2015”, NHNN đã tham mưu trình Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1058/QĐ-TTg ngày 19-7-2017 về việc phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020”.
Có thể tóm tắt mục tiêu của Quyết định số 1058 như sau: Thứ nhất, cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với trọng tâm là xử lý căn bản, triệt để nợ xấu và các TCTD yếu kém; bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và giữ vững sự ổn định, an toàn hệ thống. Thứ hai, lành mạnh hóa tình hình tài chính, nâng cao năng lực quản trị của các TCTD; xử lý và xóa bỏ tình trạng đầu tư chéo, sở hữu chéo. TCTD triển khai Basel II… Thứ ba, phấn đấu đến năm 2020 tăng gấp 2 lần tỷ trọng thu nhập từ hoạt động phi tín dụng; hoàn thành việc niêm yết cổ phiếu của các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) trên thị trường chứng khoán; các quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) đạt mức vốn điều lệ tối thiểu một (01) tỉ đồng.
Mục tiêu, đến năm 2020 đưa tỷ lệ nợ xấu nội bảng của các TCTD, nợ xấu đã bán cho VAMC và nợ đã thực hiện các biện pháp phân loại nợ xuống dưới 3%.
Về kết quả đạt được, theo ông Trần Đăng Phi: Thứ nhất, khuôn khổ pháp lý về tiền tệ, ngân hàng và xử lý nợ xấu được hoàn thiện phù hợp với chuẩn mực quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam. Thứ hai, sự ổn định, an toàn của hệ thống các TCTD được giữ vững; Quy mô, năng lực tài chính, năng lực quản trị, điều hành được nâng cao, mở rộng, phù hợp với thông lệ quốc tế; tính minh bạch trong hoạt động tín dụng của TCTD từng bước được cải thiện. Thứ ba, chất lượng tín dụng được cải thiện, tỷ lệ nợ xấu giảm dần qua các năm. Các giải pháp xử lý nợ xấu được triển khai đồng bộ cùng với các biện pháp kiểm soát, phòng ngừa nợ xấu mới phát sinh đã góp phần nâng cao chất lượng tín dụng và giảm tỷ lệ nợ xấu của hệ thống các TCTD. Thứ tư, việc triển khai Basel II tiếp tục được các TCTD tập trung thực hiện để đáp ứng các thông lệ quốc tế về an toàn vốn;
Thứ năm, tình trạng sở hữu chéo, đầu tư chéo trong hệ thống các TCTD đã được xử lý một bước quan trọng, tình trạng cổ đông/nhóm cổ đông lớn, thao túng, chi phối ngân hàng về cơ bản được kiểm soát; Thứ sáu, về cơ bản, hoạt động của hệ thống QTDND tương đối ổn định; Các QTDND phát huy được ưu thế trong công tác huy động vốn, cho vay trên địa bàn hoạt động, hỗ trợ cho các thành viên trên địa bàn phát triển sản xuất - kinh doanh, dịch vụ, góp phần không nhỏ vào việc xóa đói giảm nghèo và phát triển kinh tế địa phương; Thứ bảy, công tác thanh tra, giám sát được tăng cường và xử lý kiên quyết các rủi ro, tồn tại và sai phạm của TCTD.
Về kết quả xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 của Quốc hội, có thể nói Nghị quyết số 42 đã tạo cơ chế xử lý đồng bộ, thống nhất, hiệu quả, kiểm soát chặt chẽ các khoản nợ xấu và xử lý tài sản bảo đảm (TSBĐ) các khoản nợ xấu của TCTD. Tuy nhiên, quá trình triển khai Nghị quyết số 42 còn cho thấy có một số khó khăn, vướng mắc trên thực tế cần sự phối hợp của các bộ, ban, ngành có liên quan xử lý (đặc biệt là việc thực hiện quyền thu giữ TSBĐ, thực hiện thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý TSBĐ, áp dụng thủ tục rút gọn trong giải quyết tranh chấp tại Tòa án, đây là điểm mấu chốt để quá trình triển khai Nghị quyết số 42 có hiệu quả hơn) để các chính sách, giải pháp của Nghị quyết 42 được áp dụng có hiệu quả hơn trong thời gian tới.
Những khó khăn, vướng mặc trong quá trình thực hiện, có thể kể đến trước hết là khó khăn trong nâng cao năng lực tài chính đáp ứng Basel II. Kế tiếp, tiến độ xử lý cơ cấu lại đối với một số TCTD phi ngân hàng có chủ sở hữu/cổ đông lớn là Tập đoàn/Tổng công ty nhà nước còn chậm. Việc xử lý TSBĐ còn khó khăn trong trường hợp TSBĐ cho các khoản nợ bị kê biên, liên quan đến các vụ án, hồ sơ pháp lý chưa hoàn chỉnh. Bên cạnh đó, có khó khăn trong thực hiện quyền thu giữ TSBĐ của khoản nợ xấu theo Nghị quyết 42; thực hiện thứ tự ưu tiên khi thanh toán nghĩa vụ về thuế, án phí…
Về định hướng và giải pháp, NHNN tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành, UBND các tỉnh, thành phố để ban hành chỉ đạo, hướng dẫn hỗ trợ TCTD và giải quyết dứt điểm những khó khăn, vướng mắc về cơ chế và thực tế áp dụng chính sách xử lý nợ xấu theo Nghị quyết số 42.
Kế tiếp, tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động của TCTD… Tiếp tục giám sát chặt chẽ và chỉ đạo các TCTD triển khai quyết liệt, hiệu quả phương án cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu đã được phê duyệt.
Bên cạnh đó, tăng cường chỉ đạo TCTD tăng cường kiểm soát chất lượng tín dụng; tích cực triển khai các biện pháp kiểm soát và hạn chế nợ xấu phát sinh, đặc biệt trong bối cảnh bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19.
Và cuối cùng, nghiên cứu xây dựng trình Chính phủ Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2021-2025 nhằm tiếp tục hỗ trợ các TCTD trong việc xử lý hiệu quả nợ xấu, góp phần thực hiện thành công các mục tiêu về cơ cấu lại hệ thống các TCTD.
Ông Đỗ Giang Nam, Phó giám đốc VAMC, đã tóm tắt những điểm quan trọng về hoạt động mua bán - xử lý nợ xấu sau khi có Nghị quyết số 42. Theo đó, những khó khăn về xử lý nợ xấu trước khi Nghị quyết số 42 ra đời: Chưa nhận được sự quan tâm và phối hợp của các bộ ngành liên quan; Chưa tạo động lực để phát triển thị trường mua bán nợ nhằm khuyến khích, huy động nguồn lực xã hộI tham gia xử lý nợ xấu; Cơ chế chính sách liên quan đến hoạt động xử lý nợ xấu còn thiếu và bất cập.
Riêng đối với VAMC, những khó khăn về xử lý nợ xấu trước khi Nghị quyết số 42 ra đời: Thiếu nguồn lực (vốn, nhân lực…); Cơ chế liên quan đến hoạt động mua và xử lý nợ của VAMC; Thiếu sự phối hợp giữa VAMC và các TCTD, đặc biệt là chính quyền địa phương; Pháp luật về tố tụng dân sự chưa cho phép áp dụng thủ tục rút gọn; Kết quả xử lý nợ xấu còn hạn chế.
Tác động của Nghị quyết số 42 đối với hoạt động xử lý nợ: Khẳng định quyền chủ nợ của VAMC/TCTD; Nâng cao ý thức trả nợ của khách hàng; Tạo động lực khuyến khích TCTD bán nợ; Giúp tạo lập và phát triển thị trường mua bán nợ.
Kết quả mua nợ tại VAMC: Lũy kế mua nợ bằng trái phiếu đạc biệt (TPĐB) tháng 8-2020 đạt 329.007 tỉ đồng. Trong đó: Mua nợ bằng TPĐB sau khi Nghị quyết số 42 có hiệu lực đạt 67.612 tỉ đồng; Mua nợ theo giá trị thị trường (GTTT) từ 2017 đến 2020 đạt 8.341 tỉ đồng.
Kết quả xử lý nợ tại VAMC sau khi Nghị quyết số 42 có hiệu lực: Từ khi Nghị quyết số 42 có hiệu lực đến 31-8-2020, thu hồi nợ ước đạt 94.370 tỉ đồng, gấp 1,5 lần tổng thu hồi nợ giai đoạn trước đó, từ 2013 đến 14-8-2017. Thu giữ thành công một số TSBĐ có giá trị lớn, góp phần đẩy nhanh tiến độ thu hồi nợ.
Kết quả thu hồi nợ phân theo các biện pháp: Sau khi Nghị quyết số 42 có hiệu lực (từ 15-8-2017 đến tháng 8-2020): Kết quả thu hồi từ biện pháp bán nợ tăng gấp hơn 4 lần so với giai đoạn trước đó, từ 2013 đến ngày 14-8-2017; Kết quả thu hồi nợ từ biện pháp xử lý TSBĐ tăng gấp 1,5 lần so với giai đoạn trước đó, từ 2013 đến ngày 14-8-2017; Ý thức trả nợ của khách hàng tăng cao rõ rệt, việc thu hồi nợ thông qua các biện pháp khác như tố tụng cũng tác động tích cực đến kết quả thu hồi xử lý nợ.
Kết quả hoạt động đấu giá sau khi Nghị quyết số 42 có hiệu lực: Giai đoạn 2017 đến 31-8-2020: thực hiện đấu giá thành công nhiều khoản nợ và TSBĐ với tổng số tiền trúng đấu giá 1.371 tỉ đồng.
Kết quả hoạt động khác sau khi Nghị quyết số 42 có hiệu lực: Thứ nhất, VAMC được chấp thuận tăng vốn điều lệ lên 5.000 tỉ đồng nhằm tăng cường nguồn lực phục vụ hoạt động mua nợ theo GTTT, nâng cao năng lực tài chính, uy tín trên thị trường mua bán nợ. Thứ hai, VAMC cơ cấu và sắp xếp lại các đơn vị nghiệp vụ nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, trong đó phát triển hoạt động đấu giá, nâng cao năng lực quản trị rủi ro.
Thứ ba, VAMC triển khai mạnh mẽ các giải pháp phát triển thị trường mua bán nợ: Xây dựng Đề án thành lập Sàn giao dịch nợ VAMC nhằm quản lý, khai thác thông tin về khoản nợ/tài sản bảo đảm; Xúc tiến thành lập Câu lạc bộ AMC nhằm tạo lập diễn đàn trao đổi, chia sẻ thông tin, kết nối nhà đầu tư; Tham gia thành viên IPAF, ký thỏa thuận hợp tác với các đối tác như KAMCO, SAM để chia sẻ kinh nghiệm xử lý nợ và kết nối các nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường mua bán nợ tại Việt nam.
Về khó khăn vướng mắc của Nghị quyết số 42, theo ông Đỗ Giang Nam, trước hết, thực tế quy định khác nhau giữa Nghị quyết số 42 và văn bản pháp luật khác về xử lý nợ xấu và tài sản bảo đảm thì việc thực hiện gặp nhiều khó khăn. Kế tiếp, Nghị quyết số 42 chỉ mang tính chất thời điểm, có hiệu lực 5 năm. Do đó, cần có VBPL thay thế khi Nghị quyết 42 hết hiệu lực. Chưa kể, quy định về việc ưu tiên thanh toán nghĩa vụ nợ
trước nghĩa vụ thuế của bên bảo đảm vẫn đang chờ văn bản hướng dẫn.
Một khó khăn khác là hành lang pháp lý cho phát triển thị trường mua bán nợ còn nhiều bất cập, chưa khuyến khích nhà đầu tư tham gia thị trường. Chưa có quy định cụ thể về tiêu chuẩn thẩm định giá khoản nợ làm cơ sở cho các tổ chức thẩm định giá thực hiện. Sự phối hợp của các đơn vị liên quan trong việc xử lý nợ xấu đôi khi còn chưa đồng bộ và thống nhất.
Về định hướng và giải pháp, để tạo lập, phát triển thị trường mua bán nợ, cần: Hoàn thiện hành lang pháp lý về phát triển thị trường mua bán nợ; Xây dựng và ban hành tiêu chuẩn thẩm định giá khoản nợ tạo cơ sở pháp lý để thực hiện; Có chính sách khuyến khích các nhà đầu tư (kể cả nhà đầu tư nước ngoài) tham gia thị trường mua bán nợ (tăng quyền của chủ nợ); Thành lập Hiệp hội các AMC nhằm kết nối, chia sẻ thông tin; Minh bạch thông tin về hàng hóa (nợ xấu và tài sản bảo đảm).
Để luật hóa Nghị quyết 42 và hoàn thiện hành lang pháp lý, cần: Sớm luật hóa Nghị quyết 42 trước khi nghị quyết hết hiệu lực để tạo hành lang pháp lý đồng bộ và thống nhất trên cơ sở kế thừa những quy định tại nghị quyết này có tác động tích cực đến quá trình xử lý nợ; Đồng thời xem xét sửa đổi một số Luật chuyên ngành liên quan: Luật Đất đai, Bộ Luật dân sự… để đồng bộ với các quy định tại Nghị quyết 42.
Để nâng cao năng lực cho VAMC, cần: Tăng cường nguồn lực tài chính; Nâng cao năng lực quản trị
rủi ro; Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Ông Nguyễn Thế Huân, Thành viên HĐQT Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam (VietinBank), trình bày về tình hình triển khai, các khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai và đề xuất, kiến nghị giải pháp, biện pháp xử lý.
Ông Huân cho biết, trong thời gian qua, bám sát định hướng và chỉ đạo của Chính phủ, NHNN, VietinBank đã thực hiện triển khai tái cơ cấu hoạt động và xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020. Đến thời điểm hiện tại, VietinBank đã kiện toàn nhân sự thực hiện phương án tái cơ cấu tại VietinBank giai đoạn 2016-2020. Ban giám đốc ngân hàng đã chỉ đạo các bộ phận tích cực triển khai xây dựng phương án tái cơ cấu bám sát khung hướng dẫn của NHNN. Trong đó có 3 nội dung trọng yếu về tái cơ cấu lại là: Nâng cao năng lực tài chính; Nâng cao năng lực quản trị điều hành; Xử lý nợ xấu đi đôi với kiểm soát chất lượng tăng trưởng.
Thứ nhất, về nâng cao năng lực tài chính, trong bối cảnh yêu cầu tăng trưởng đối với nền kinh tế Việt Nam đang ở mức cao và phụ thuộc khá nhiều vào tín dụng từ khu vực ngân hàng; vấn đề nâng cao năng lực tài chính, trong đó trọng tâm là nâng cao năng lực vốn tự có trở thành một yêu cầu cấp thiết đối với sự phát triển bền vững của VietinBank. Một số giải pháp VietinBank đã triển khai như: Tái cấu trúc danh mục tài sản có rủi ro theo hướng phân bổ nguồn lực hợp lý, tập trung vào các sản phẩm, phân khúc có hiệu quả cao và mức độ rủi ro thấp, tối ưu hóa hiệu quả sử dụng vốn tự có của ngân hàng; Tái cấu trúc danh mục đầu tư sử dụng vốn tự có, giảm tỷ lệ sở hữu/thoái vốn ở các lĩnh vực không phải hoạt động kinh doanh cốt lõi của ngân hàng; Cơ cấu lại vốn tự có giữa vốn cấp 1 và vốn cấp 2, phát hành trái phiếu thứ cấp để tăng vốn cấp 2, đồng thời giảm áp lực tăng vốn tự có đối với các cổ đông và cải thiện tỷ lệ cổ tức, giá cổ phiếu của ngân hàng.
Thứ hai, về nâng cao năng lực quản trị điều hành, VietinBank tiếp tục kiện toàn hoạt động theo mô hình 3 vòng kiểm soát như thông lệ quốc tế; nâng cao năng lực quản trị rủi ro phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực Ủy ban Basel; phát huy vai trò của các nhà đầu tư chiến lược; chủ động xây dựng kế hoạch, chiến lược kinh doanh trong trung, dài hạn; ứng dụng công nghệ hiện đại trong quản trị điều hành, phân tích và phòng ngừa rủi ro, hướng tới mục tiêu phát triển an toàn, hiệu quả.
Thứ ba, về xử lý nợ xấu, sau khi Nghị quyết 42 được ban hành, VietinBank đã thực hiện truyền thông, đào tạo nội dung Nghị quyết tới tất cả các chi nhánh, phòng/ban có liên quan để triển khai, áp dụng Nghị quyết 42 trong công tác xử lý thu hồi nợ ngay khi văn bản có hiệu lực vào ngày 15/8/2017. Đồng thời, thực hiện rà soát chi tiết danh mục khoản nợ, đánh giá các biện pháp xử lý phù hợp với từng khoản nợ để áp dụng hiệu quả các quy định tại Nghị quyết 42/2017/QH14.
Với việc tích cực, chủ động triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp xử lý nợ xấu (đôn đốc thu hồi nợ, bán, xử lý nợ, xử lý TSBĐ, khởi kiện khách hàng vay, sử dụng DPRR…), đến thời điểm hiện nay VietinBank đã đạt được kết quả: Tỷ lệ nợ xấu được VietinBank chủ động kiểm soát ở mức an toàn theo quy định của NHNN (dưới 3%); Từ khi Nghị quyết 42 có hiệu lực cho đến nay, VietinBank đã xử lý thu hồi hơn 28.000 tỷ đồng nợ xấu được xác định là nợ xấu theo Nghị quyết 42.
Đề cập đến các khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai Nghị quyết số 42, ông Nguyễn Thế Huân cho biết đó là áp lực tăng vốn tự có, đặc biệt là vốn điều lệ của VietinBank trong giai đoạn 2016-2020 là rất lớn. Để đảm bảo thực hiện vai trò là NHTM hàng đầu, giữ vị thế tạo lập thị trường, dẫn đầu hệ thống các TCTD về quy mô hoạt động, tốc độ tăng trưởng tín dụng hàng năm.
Tuy nhiên, bên cạnh các mục tiêu về tăng trưởng, VietinBank cần phải đảm bảo duy trì mức vốn tự có đáp ứng quy định hiện hành của NHNN, đáp ứng lộ trình áp dụng chuẩn Basel II theo quy định của NHNN tại Thông tư 41 (hiệu lực từ 1-1-2020), đảm bảo tỷ lệ vốn cấp 1/Tài sản có rủi ro theo tiêu chuẩn của các cơ quan xếp hạng tín nhiệm quốc tế nhằm duy trì mức xếp hạng tín nhiệm hiện tại. Nếu không tăng được vốn điều lệ, VietinBank sẽ phải giảm tốc độ tăng trưởng tín dụng, tác động trực tiếp đến khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế, ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng tín dụng toàn ngành và theo đó tác động tiêu cực đến tốc độ tăng trưởng GDP của nền kinh tế.
Kế tiếp, quy định pháp luật về xử lý nợ xấu nói chung và xử lý TSBĐ của các khoản nợ xấu nói riêng còn nhiều bất cập, chồng chéo, chưa tạo hành lang pháp lý thông thoáng cho các ngân hàng xử lý nợ xấu, xử lý TSBĐ của các khoản nợ xấu. Tiến độ xử lý, thu hồi nợ qua cơ quan Tòa án và Thi hành án còn rất chậm.
Nêu kiến nghị, đề xuất, ông Nguyễn Thế Huân cho biết. Thứ nhất, bên cạnh nguồn lực tích lũy từ lợi nhuận để lại, các TCTD trong đó có VietinBank rất cần sự phê duyệt của Chính phủ, NHNN và các Bộ ban ngành có liên quan cho phép giữ lại toàn bộ lợi nhuận hoặc chia cổ tức bằng cổ phiếu trong giai đoạn từ nay đến năm 2020, đồng thời Nhà nước bố trí nguồn lực để tăng vốn cho các TCTD nhà nước trên cơ sở duy trì tỷ lệ biểu quyết của Nhà nước ở mức tối thiểu 65%. Đây là điều kiện tiên quyết đối với sự phát triển bền vững của VietinBank cũng như các NHTM Nhà nước khác, thông qua đó tạo đòn bẩy để thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế trong giai đoạn bứt phá và tăng tốc hiện nay trước khi bước vào giai đoạn phát triển ổn định và gặt hái thành quả sau này.
Thứ hai, để Nghị quyết số 42/2017/QH14 được triển khai có hiệu quả trên thực tế, đặc biệt trong bối cảnh diễn biến phức tạp của dịch Covid-19 như hiện nay, VietinBank kiến nghị các bộ, ban ngành. Về phía Bộ Tư pháp, đề nghị tiếp tục chỉ đạo Tổng cục Thi hành án dân sự rà soát các vụ việc thi hành án (THA) có điều kiện THA tồn đọng để ưu tiên xử lý, thu hồi dứt điểm cho VietinBank; Bộ Công an có biện pháp kiên quyết xử lý các tổ chức, cá nhân có hành vi chống đối, cản trở, đe dọa tính mạng, tinh thần của cán bộ VietinBank tham gia thu giữ TSBĐ, đảm bảo cho việc thu giữ TSBĐ được diễn ra thuận lợi, phù hợp với quy định pháp luật.
Về Bộ Tài chính, đề xuất phối hợp với NHNN đề xuất cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho ngân hàng về các khoản thuế, phí còn nợ của bên bảo đảm trong việc chuyển nhượng TSBĐ; Có hướng dẫn về tiêu chuẩn định giá khoản nợ để làm cơ sở cho các cơ quan thẩm định giá thực hiện thẩm định giá khoản nợ cho các ngân hàng.
Về phía Ngân hàng Nhà nước, vì Nghị quyết 42 có tính chất thí điểm, thời điểm, do đó sau khi Nghị quyết 42 hết hiệu lực, NHNN cần có tổng kết, đánh giá kết quả đạt được của Nghị quyết 42 để từ đó đề xuất Quốc hội ban hành Luật xử lý nợ xấu của các TCTD.
Về UBND tỉnh, thành phố, đề nghị tiếp tục rà soát, có văn bản hướng dẫn, chỉ đạo các cấp chính quyền thực hiện các nội dung quy định của Nghị quyết 42, phân công trách nhiệm hỗ trợ ngân hàng trong quá trình thực thu giữ TSBĐ và có cơ chế giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình thu giữ nhằm đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn xã hội, đảm bảo hỗ trợ tốt nhất cho các ngân hàng trong quá trình thu giữ TSBĐ.
9 giờ 50:
Phiên thảo luận thứ 1 của diễn đàn với chủ đề: Nhìn lại quá trình cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020, với sự tham gia của: Ông Trần Đăng Phi, Phó Chánh thanh tra, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng; Ông Đỗ Giang Nam, Phó giám đốc Công ty Quản lý tài sản VAMC; Luật sư Trương Thanh Đức của Công ty Luật Basico; Ông Nguyễn Thế Huân, Thành viên HĐQT Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam (VietinBank).
Theo ông Trần Đăng Phi, Phó Chánh thanh tra, Cơ quan Thanh tra, giám sát Ngân hàng Nhà nước, hệ thống các TCTD từ những ngân hàng quy mô lớn tới các ngân hàng quy mô nhỏ đã đạt được những kết quả nổi bật trong lĩnh vực quản trị, điều hành trong thời gian vừa qua. Cụ thể, chất lượng quản trị được tăng cường, củng cố. Còn hoạt động điều hành cũng tiến gần tới tiêu chuẩn quốc tế - tách bạch rõ ràng giữa hoạt động quản trị và điều hành. Tiếp theo, Thông tư 41 và 13 đã tạo ra hành lang, sân chơi và phạm vi để bảo đảm việc điều hành bài bản trong một tổ chức tín dụng. Các TCTD đã giải quyết nhiều yếu kém, tồn tại trong giai đoạn trước.
Về nợ xấu, giai đoạn trước tỷ lệ nợ xấu là 17,2% nhưng hiện nay chất lượng tín dụng đã được cải thiện, trở nên tốt hơn nhiều. Tình trạng sở hữu chéo, chi phối đan xen giữa các ông chủ ngân hàng đã được khắc phục nhờ có những quy định pháp luật nghiêm khắc – giúp hạn chế hoạt động đầu tư, cho vay giữa ngân hàng và các công ty sân sau. Cuối cùng, các bộ, ngành đã xây dựng được một hành lang pháp lý rất hoàn chỉnh.
Ông Đỗ Giang Nam, Phó giám đốc Công ty Quản lý tài sản VAMC, cho rằng hoạt động quản trị đã thay đổi, tình trạng sở hữu chéo và bị các ông chủ ngân hàng chi phối đã được kiểm soát, con số nợ xấu đã giảm mạnh, khác biệt giữa thời kỳ có Nghị quyết 42 và chưa có Nghị quyết 42. Sự khác biệt cơ bản trước và sau Nghị quyết 42, đó là sự thay đổi trong ý thức của khách hàng về việc trả nợ. Nghị quyết 42 cho phép VAMC và các TCTD thực hiện các xử lý nợ xấu mạnh trong vấn đề thu hồi nợ và thu hồi TSBĐ. Trước đây có nhiều khách hàng chây ỳ, chống đối trong việc trả nợ thì nay có Nghị quyết 42 giúp khách hàng ý thức được nghĩa vụ trả nợ, có vay có trả. Và điều này thể hiện ở số liệ thu hồi nợ do biện pháp tự trả nợ tăng mạnh.
Nghị quyết 42 còn cho phép VAMC và các TCTD có nhiều biện pháp hơn trong việc xử lý nợ, đặc biệt là mua bán nợ, có chức năng mua bán nợ, cho phép bán nợ cho các tổ chức và cá nhân, hình thành thành thị trường mua bán nợ. Số liệu thu hồi nợ sau khi Nghị quyết 42 đi vào thực tế đã tăng gấp 4 lần, biện pháp bán nợ thể hiện sự tích cực, đa dạng hóa hình thức mua bán nợ.
Luật sư Trương Thanh Đức của Công ty Luật Basico cho rằng hơn 3 năm trước, nhiều người tham dự sự kiện Vietnam Banking Forum 2020 hôm nay đã từng tham gia xây dựng Nghị quyết 42, khi đó, có không ít câu hỏi bày tỏ sự lo lắng: “Không biết Nghị quyết có được thông qua hay không?”, “Thông qua Nghị quyết rồi, liệu việc thực thi có hiệu quả hay không?”
Nhưng thực tế Nghị quyết 42 giống như chìa khoá giúp giải quyết nút thắt về tài sản tranh chấp, giúp việc giải chấp tài sản để trả nợ. Nếu không có nó thì nợ xấu sẽ phát sinh rất lớn.
Có thể nói nó là một chính sách hiệu quả, khả thi, hữu dụng nhất về xử lý nợ xấu trong lĩnh vực kinh tế. Tuy nhiên, ông Đức cũng lưu ý về thủ tục rút gọn, Bộ Luật dân sự từ có hiệu lực từ năm 2015 nhưng qua theo dõi thông tin trên báo chí, tôi chưa thấy chưa xử lý được vụ nào. Điển hình là Agribank có hàng chục vụ việc được đưa ra toà nhưng chưa giải quyết được.
Ông Nguyễn Thế Huân, Thành viên HĐQT VietinBank, chia sẻ các ngân hàng khi phát sinh nợ xấu, đi thu hồi nợ không có sự hợp tác của khách hàng sẽ rất khó khăn. Nhưng sau khi có Nghị quyết 42 bảo vệ quyền chủ nợ tốt hơn, thuận lợi cho ngân hàng trong xử lý nợ xấu. Tuy nhiên khi đi đòi nợ cũng có những trường hợp phát sinh nhất định là: khi phát sinh tranh chấp mà khách không hợp tác thì ngân hàng thường kiện ra tòa. Nhưng ra tòa gặp vô vàn khó khăn rắc rối. Các con nợ thườngg tạo tranh chấp mới để gây khó khăn chậm lại quá trình... từ đó, buộc các ngân hàng phải xuống nước, miễn lãi...
Ông Trần Đăng Phi, Phó Chánh thanh tra, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, cho biết trong quá trình tổng kết 3 năm thực hiện Nghị quyết 42, đơn vị này nhận thấy những quy định phát huy tác dụng trong thực tế - định có tính chất tạo điều kiện, giải quyết khó khăn vướng mắc cho quá trình xử lý nợ. Hiện Chính phủ đã giao NHNN phối hợp với các bộ, ngành xem xét, nghiên cứu dự định sẽ luật hóa các quy định nói trên, đưa vào Luật các Tổ chức tín dụng.
Nếu điều này trở thành sự thật, các ngân hàng có phát sinh nợ, các đơn vị, tổ chức, cá nhân có khoản nợ với ngân hàng đều sẽ thuận lợi hơn trong quá trình xử lý khoản nợ, giúp tiết kiệm thời gian giải quyết khoản nợ rất nhiều so với trước đây.
Đề cập đến việc ngân hàng sử dụng công cụ nào trong Nghị quyết 42 nhiều nhất để vận dụng vào trong xử lý nợ xấu, ông Nguyễn Thế Huân, Thành viên HĐQT VietinBank, cho biết đơn vị đang vận dụng nhiều nhất biện pháp bán nợ ra thị trường để xử lý nợ xấu. Đây là một trong những giải pháp mà trong Nghị quyết 42 có đề ra cho phép bán nợ cao hơn hoặc thấp hơn giá trị gốc của khoản nợ. Như vậy, giải pháp đã tạo hành lang pháp lý cho phép các ngân hàng yên tâm trong việc bán nợ một cách công khai và minh bạch. Thị trường chấp nhận giá như thế nào thì khoản nợ sẽ được bán với giá như vậy.
Ở góc độ VietinBank, ngân hàng đã áp dụng khá nhiều biện pháp này và nhiều khoản nợ được xử lý qua biện pháp này, giúp tiết kiệm khá nhiều nguồn lực của ngân hàng, thời gian và công sức, qua đó cho phép ngân hàng tăng cường nguồn lực để tiếp tục cho vay.
Ông Đỗ Giang Nam, Phó Giám đốc Công ty Quản lý tài sản VAMC, chia sẻ rằng hoạt động bán nợ cho mọi tổ chức, cá nhân, không phải chỉ là VAMC. Phương pháp bán nợ được thực hiện công khai minh bạch sẽ là tiền đề hình thành thị trường mua bán nợ xấu, vốn phổ biến tại các thị trường phát triển như Hàn Quốc, Thái Lan…
Phương pháp bán nợ này tuy nhiên vẫn còn tiệm cận tại Việt Nam. Quan trọng nhất của biện pháp này là tạo được hành lang pháp lý nhằm khuyến khích các nhà đầu tư tham gia mua lại khoản nợ xấu và trả lời được câu hỏi họ có thể làm gì với khoản nợ xấu.
Hầu hết các nhà đầu tư thực hiện mua bán nợ có thỏa thuận chuyển nợ thành vốn góp, và tham gia vào tái cấu trúc doanh nghiệp, giúp doanh phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh. Nên phương pháp mua bán nợ theo giá trị trường sẽ giúp đơn giản hóa thủ tục đối với việc xử lý nợ xấu tại VAMC nhưng đồng thời giúp huy động nguồn lực vào thụ trường mua bán nợ xấu, có ý nghĩa to lớn với xã hội.
10 giờ 20:
Ông Phạm Thế Anh, Chuyên gia kinh tế, Trưởng Bộ môn kinh tế vĩ mô, Trường đại học Kinh tế Quốc dân điểm lại diễn biến tình hình kinh tế, tài chính thế giới trong bối cảnh đại dịch Covid-19: những tác động tới kinh tế và thị trường tài chính – tiền tệ Việt Nam
Dự báo tăng trưởng toàn cầu, ông Phạm Thế Anh cho biết, GDP toàn cầu rơi mạnh trong quí 2-2020 ( mức sụt giảm lớn hơn 10%), hiện tại, kinh tế toàn cầu bắt đầu hồi phục sau khi các biện pháp phong tỏa hoặc giãn cách xã hội được gỡ bỏ.
Về kinh tế - tài chính thế giới, mặc dù bắt đầu có sự hồi phục nhưng rủi ro và bất ổn từ đại dịch chưa hết; GDP toàn cầu được dự báo giảm 4,5% trong năm nay trước khi tăng trở lại ở mức 5% trong năm 2021(OECD); Kinh tế TQ, Mỹ và châu Âu suy giảm ít hơn nhưng Ấn Độ, Mexico, Nam Phi lại suy giảm mạnh hơn so với dự báo trước đó; Sự hồi phục là khá mong manh.
Có thể nhận thấy, sự sụt giảm GDP có tương quan chặt chẽ với sự sụt giảm tiêu dùng tư nhân. Tiêu dùng dịch vụ, đòi hỏi tương tác trực tiếp cao hay du lịch, giảm mạnh nhất. Sự hồi phục diễn ra khi các biện pháp phong tỏa được gỡ bỏ. Do đó, biện pháp khoanh vùng dập dịch được sử dụng thay vì phong tỏa toàn quốc.
Tâm lý lo ngại tăng cao, tỷ lệ tiết kiệm tư nhân tăng vọt từ 10-20 điểm % ở hầu hết nước nước phát triển; Tiền gửi ngân hàng của các doanh nghiệp cũng tăng mạnh do nhu cầu đầu tư thấp. Dự báo, cầu tiêu dùng và đầu tư có thể tăng mạnh khi đại dịch kết thúc.
Sản xuất công nghiệp và xuất khẩu hồi phục từ tháng 4-2020 tuy nhiên tốc độ hồi phục chậm dần; Du lịch quốc tế gần như biến mất. Các nước phụ thuộc lớn vào xuất khẩu như Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc hay du lịch quốc tế như Ý hay Thái Lan gặp khó khăn trong hồi phục.
Có thể nhận thấy, sự hồi phục đã chậm lại trong những tháng gần đây đặc biệt là ở các nền kinh tế phát triển. Những biện pháp phòng chống sự tái bùng phát bệnh dịch đã cản trở đà hồi phục.
Những đợt tái bùng phát với quy mô nhỏ có thể tiếp tục diễn ra, các biện pháp giãn cách xã hội sẽ tiếp tục được áp dụng ở nhiều nơi. Việc tiêm chủng rộng rãi vaccine có thể phải mất một năm nữa.
Về phản ứng chính sách. Thứ nhất, kinh tế thế giới có lẽ đã suy giảm mạnh hơn nếu không có các phản ứng chính sách mạnh mẽ và kịp thời từ các nước. Thứ hai, sự mở rộng tiền tệ chủ yếu chỉ giúp tạo niềm tin, giảm nghĩa vụ nợ và ổn định tài chính, ít có khả năng khôi phục cầu nội địa. Thứ ba, Chính sách tài khóa có hiệu quả hơn trong việc ngăn chặn sự suy giảm của nền kinh tế. Thứ tư, cung tiền và nợ công tăng cao và rủi ro nằm ở sau quá trình hồi phục.
Về tác động và khả năng ứng phó của nền kinh tế Việt Nam. Việt Nam nằm trong nhóm các nền kinh tế mới nổi dễ bị tổn thương. Nguyên nhân: Khu vực phi chính thức lớn; Phụ thuộc vào xuất khẩu; Phụ thuộc vào khách du lịch quốc tế; Tỷ lệ lạm phát và lãi suất cao; Sức khỏe của hệ thống tài chính chưa vững; Thâm hụt tài khóa và gánh nặng nợ cao trước đại dịch.
TS Cấn Văn Lực, Chuyên gia kinh tế trưởng ngân hàng BIDV chia sẻ về những diễn biến tác động đến vấn đề xử lý nợ xấu hậu Covid-19.
Về triển vọng phục hồi kinh tế toàn cầu (tùy thuộc 3 điều kiện: khả năng kiểm soát dịch, hiệu quả của các gói hỗ trợ và hợp tác quốc tế…), ông Cấn Văn Lực đánh giá kinh tế thế giới phục hồi khá nhanh sau khi dịch Covid-19 được kiểm soát. Ví dụ, theo hình chữ “U” hoặc Swoosh (để dễ hình dung là giốn logo của hãng Nike) có khả năng cao; khả năng phục hồi theo hình chữ “W”, “M-ngược” hoặc “L” là không cao. Các nước hiện đang nỗ lực kiểm soát dịch đồng thời với hồi phục kinh tế; cuộc đua nghiên cứu và sản xuất vaccine; tích lũy kinh nghiệm sống và làm việc trong bối cảnh “bình thường mới”; quy mô, mức độ ảnh hưởng lớn; nhưng tiềm lực các nước mạnh hơn, Chính phủ, Ngân hàng Trung ương ra tay nhanh và mạnh hơn...
Rủi ro, theo ông Lực, thiếu vai trò lãnh đạo toàn cầu, thiếu đoàn kết; cạnh tranh thương mại, công nghệ và địa chính trị ngày càng phức tạp, khó lường. Nếu xảy ra làn sóng dịch Covid-19 thứ ba ở diện rộng, kinh tế thế giới có thể sẽ phục hồi theo hình chữ M-ngược.
Về tác động của dịch Covid-19 đối với ngành ngân hàng. Có 5 tác động chính: Thứ nhất, sức cầu yếu và niềm tin còn chưa cao, tăng trưởng tín dụng thấp (tính đến 15-9-2020: tín dụng tăng khoảng 4,81% (vs. 8,64% cùng kỳ năm 2019; cả năm 2020: 8-9%). Thứ hai, chất lượng tài sản xấu đi: nợ xấu tăng, nợ xấu nội bảng có thể lên đến 3% cuối năm 2020 và 4% trong năm 2021; trong khi xử lý nợ xấu khó khăn hơn. Thứ ba, lợi nhuận giảm (20-25% năm 2020 như các NHTM Trung Quốc). Thứ tư, ngân hàng số và thanh toán không tiền mặt tăng nhanh (trong 6 tháng đầu năm 2020: mobile banking tăng trưởng 180%). Thứ năm, hành vi, nhu cầu đầu tư, tiêu dùng của khách hàng thay đổi, cần thiết kế sản phẩm và dịch vụ phù hợp.
Các tác động khác có thể kể đến như: Thay đổi hạn mức tín dụng, mô hình lượng hóa rủi ro; Thay đổi kênh phân phối (kênh số/điện tử tăng nhanh); Hoạt động kinh doanh có thể bị gián đoạn nếu không có phương án dự phòng; Thị trường chứng khoán biến động, giá cổ phiếu ngân hàng giảm; Các loại rủi ro tăng.
Về giải pháp đối với các ngân hàng thương mại. Cần thực hiện mô hình 5 Rs: Respond (ứng phó với đại dịch); Recover (phục hồi nhanh); Re-invent (đổi mới, sáng tạo trong mô hình/chiến lược kinh doanh); Restructure (tái cơ cấu); Resilience (tăng khả năng chống chịu cú sốc bên ngoài) (theo tư vấn của các chuyên gia CPA – Úc và tác giả). Kế tiếp, tập trung vào 4 yếu tố: người lao động, năng lực tài chính, khách hàng và đối tác.
Câu hỏi đặt ra là có nên đổi mới mô hình/chiến lược kinh doanh? Cần xây dựng và thực hiện quy chế làm việc trong bối cảnh “bình thường mới”, thúc đẩy văn hóa doanh nghiệp, học hỏi - sáng tạo; Đẩy nhanh cập nhật chiến lược phát triển đến 2025 và tầm nhìn 2030; Đẩy nhanh xây dựng và thực hiện chiến lược kinh doanh số; Điều chỉnh phương thức quản lý rủi ro phù hợp.
Về quản lý rủi ro khi khủng hoảng, suy thoái: Cụ thể, rà soát danh mục tín dụng; rà soát lĩnh vực, ngành nghề; Top 10 khách hàng lớn nhất; Hành động một cách chủ động: giảm hạn mức tín dụng/khẩu vị rủi ro đối với một số lĩnh vực, đánh giá lại nguồn thu nhập/dòng tiền.
Chương trình hỗ trợ khôi phục: Chính sách thận trọng, có hỗ trợ phù hợp; Trong nguy có cơ (ngành nghề có khả năng phục hồi, ví dụ hàng không? khách hàng mới?…); Không bao giờ để khủng hoảng chỉ là để quên đi rút ra bài học gì?
TS Cấn Văn Lực khuyến nghị một số vấn đề cần lưu ý đối với cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2021-2025: Đánh giá, xác định nhu cầu cơ cấu lại? Tiếp tục thực hiện QĐ 986 về chiến lược phát triển ngành NH đến 2025, định hướng 2030; Chiến lược tài chính toàn diện; đề án thanh toán không tiền mặt (sửa đổi)…
Bên cạnh đó, hoàn thiện thể chế hệ thống ngân hàng: sửa đổi luật NHNN, luật các TCTD, luật BHTG, cùng với việc thực hiện QĐ Luật chứng khoán (2019), luật KD bảo hiểm (sửa đổi), QĐ 209/NHNN về củng cố hệ thống quỹ TDND đến 2020 và định hướng 2030; khung pháp lý cho mô hình kinh doanh mới (Fintech, cho vay ngang hàng, chia sẻ/lưu trữ dữ liệu..).
Về luật hóa Nghị quyết 42 về xử lý nợ xấu, cần thúc đẩy thành lập thị trường mua – bán nợ, quan tâm vấn đề cấu trúc hệ thống, sở hữu và quản lý.
Vậy tín dụng chính sách nên theo hướng nào? (tách bạch rõ hơn đối với tín dụng thương mại?) Tiếp tục nâng cao năng lực, hiệu quả của các TCTD (nhất là năng lực tài chính), áp dụng chuẩn mực quản trị và Basel 2
Vấn đề giám sát, an toàn hệ thống; tính hiện đại và độc lập của Ngân hàng Trung ương: nên có sự phối hợp chính sách (nhất là giữa CSTT và CSTK); giữa hạ tầng và môi trường thanh toán; quyền lợi người tiêu dùng (khách hàng) và giáo dục tài chính; cam kết hội nhập quốc tế.
10 giờ 45:
Phiên thảo luận thứ 2 có chủ đề "Những vấn đề đặt ra đối với công tác cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025", với sự tham gia của: Bà Phạm Thị Trung Hà, Phó tổng giám đốc Ngân hàng TMCP Quân đội (MB); Ông Cấn Văn Lực, Chuyên gia kinh tế trưởng BIDV; Ông Phạm Thế Anh, Trưởng bộ môn Kinh tế Vĩ mô, Trường đại học Kinh tế Quốc dân; Ông Trần Đăng Phi, Phó Chánh Thanh tra, Cơ quan Thanh tra, giám sát Ngân hàng Nhà nước.
Bà Phạm Thị Trung Hà, Phó tổng giám đốc Ngân hàng TMCP Quân đội (MB), cho biết ngân hàng MB cũng như tất cả các ngân hàng khác phải phân tích kỹ lưỡng về tình hình kinh tế, ảnh hưởng của dịch Covid-19 với các nhóm ngành để đưa ra chính sách tín dụng phù hợp. Ví dụ, các ngành du lịch, dịch vụ, vận tải hiện đang chịu ảnh hưởng rõ nét bởi dịch bệnh.
Hiện ngân hàng MB đang tập trung chính sách ưu đãi tín dụng cho những doanh nghiệp hoạt động ở những lĩnh vực lĩnh vực xuất nhập khẩu, bán lẻ, dịch vụ trên tinh thần ngân hàng đồng hành cùng doanh nghiệp.
Quá trình tiếp xúc với doanh nghiệp cho thấy bản thân chủ doanh nghiệp còn suy nghĩ nhiều hơn ngân hàng. Họ luôn tính toán phải đầu tư vào đâu, khi nào đi vay, vay bao nhiêu tiền.
Bà Hà cho rằng khi có sự kết hợp của hai bên sẽ bảo đảm hiệu quả cho vay tốt hơn. Với ngân hàng MB, khách hàng được giảm lãi suất cho vay, giãn nợ đã bắt đầu trả được nợ từ quí 2, quí 3 nhiều chứ không cần chờ tới năm sau.
TS Cấn Văn Lực, Chuyên gia kinh tế trưởng ngân hàng BIDV, dẫn chứng Thông tư 01 và Thông tư 01 sửa đổi, từ đó nêu quan điểm ngân hàng cần sự sửa đổi gì để tăng sự đồng hành?
Theo ông Lực, ngân hàng sẽ cần 3 thứ. Thứ nhất, sự đồng hành quyết liệt hơn của Bộ Tài chính, sự đồng hành, vào cuộc của bộ, ban, ngành (vốn hiện tại chưa phải là quyết liệt). Ví dụ, với Thông tư 01 sửa đổi, theo thông tin từ NHNN, cơ quan này cho biết đã gửi sang Bộ Tài chính nhưng chưa có sự phản hồi. Như vậy, theo ông Lực, sự vào cuộc chưa mạnh mẽ và một mình NHNN thì không thể tự làm được. Đây là điều kiện tiên quyết để cùng xử lý những vấn đề.
Thứ hai, ngân hàng cần sự hỗ trợ nhiều hơn nữa từ phía NHNN, ví dụ đẩy mạnh cho vay tái cấp vốn, qua đó giảm chi phí đầu vào cho hệ thống ngân hàng, qua đó tăng tiềm lực để xử lý nợ xấu và cho vay nhiều hơn. Đây là kế hoạch của NHNN.
Thứ ba, phí bảo hiểm tiền gửi hiện tương đối lớn, nếu được giảm sẽ có nguồn lực tốt hơn để hỗ trợ khách hàng, phù hợp với tình hình miễn giảm phí cho khách hàng.
Liên quan tới nội dung của Thông tư 01, cho phép giữ nguyên nhóm nợ, giãn hoãn tới một mức phù hợp, nhưng nếu lâu quá sẽ thiếu tính thực chất, bền vững, nhưng ngắn quá có thể là cú sốc, nên NHNN cần tính toán thời điểm phù hợp nên ở mức nào. Ví dụ, đề xuất thời gian giãn, hoãn là hết 2021, tại thời điểm có thể dịch bệnh được kiêm soát tốt hơn, tiềm lực của ngân hàng và doanh nghiệp cũng được nâng cao.
Ông Trần Đăng Phi, Phó Chánh Thanh tra, Cơ quan Thanh tra, giám sát Ngân hàng Nhà nước, cho biết NHNN được giao và đang phối hợp với các bộ ngành, Bộ Tài chính để hoàn thiện các hàng lang pháp lý. Mới đây, ngày 3-9, Ngân hàng Nhà nước đã làm việc với Bộ Tài Chính để thống nhất, định hướng sửa Thông tư 01. Ngân hàng cũng là một doanh nghiệp, nên khi thực hiện giãn, miễn, giảm lãi phí... cho doanh nghiệp họ cũng phải tính đến áp lực tài chính làm sao để đảm bảo hoạt động.
Ngân hàng Nhà nước đang nghiên cứu để sửa Thông tư 01 căn cơ sao đảm bảo an toàn cho các ngân hàng. Cùng với các đơn vị sẽ sửa bài bản nhất để sớm thông tin đến các bên có liên quan. Liên quan đến quy định phí bảo hiểm tiền gửi, vấn đề này đã nằm trong Luật Bảo hiểm tiền gửi nên không thể ngày một ngày hai sửa được. Ngân hàng Nhà nước đang báo cáo Chính phủ để sửa. Cụ thể, Ngân hàng Nhà nước đang khẩn trương đánh giá mặt được, chưa được... để có thể sẽ sớm sửa trong thời gian tới.
Ông Phạm Thế Anh, Trưởng bộ môn Kinh tế Vĩ mô, Trường đại học Kinh tế Quốc dân, dẫn chứng thống kê của NHNN, quy mô tín dụng chịu ảnh hưởng của Covid-19 là hơn 2 triệu tỉ đồng – chiếm ¼ tổng quy mô tín dụng của toàn nền kinh tế, gồm: ảnh hưởng trực tiếp và ảnh hưởng gián tiếp. Trong ba tháng của quí 3-2020, ông Phạm Thế Anh dự báo con số này đã tăng lên nhiều.
Chính sách hạ lãi suất của Việt Nam dù không giúp tăng trưởng tín dụng nhưng giúp giảm áp lực trả nợ rất nhiều. Nếu chúng ta kiểm soát tốt lạm phát trong thời gian tới thì dư địa hạ lãi suất sẽ còn rất nhiều.
Bà Phạm Thị Trung Hà, Phó tổng giám đốc Ngân hàng Quân đội (MB), cho rằng khi nhìn lại Đề án 1058 về cơ cấu các TCTD, có nội dung về việc từ lệ thuộc vào tín dụng sang kinh doanh đa dịch vụ, áp dụng CNTT trong quá trình chuyển đổi này.
Với MB, ngân hàng xác định rõ tính lệ thuộc vào tín dụng phải giảm đi khi NHNN siết room tín dụng. Cụ thể, ngân hàng không nhất thiết phải thu phí chuyển tiền, mở tài hoản.
Qua quá trình chuẩn bị trong suốt quá trình tái cơ cấu TCTD giai đoạn 2016-2020, MB đã đầu tư các nền tảng phục vụ hai nhóm khách hàng là SME Care và BizMB với mong muốn giúp các doanh nghiệp trong cộng đồng kết nối, tương tác, quảng cáo dịch vụ, sản phẩm cho nhau, từ đó tạo thành một liên kết cộng đồng. Nếu doanh nghiệp, tổ chức gặp vướng mắc về thuế, phí, thủ tục hải quan thì ngân hàng MB sẽ tổ chức diễn đàn đối thoại, mời chuyên gia tư vấn.
Với BizMB, sau khi định danh doanh nghiệp thì ngoài hoạt động thanh toán, chuyển tiền, nền tảng của MB giúp doanh nghiệp thực hiện nhiều hoạt động giao dịch mà không phải tới ngân hàng.
Ngoài ra, MB cũng thiết kế ứng dụng trên thiết bị thông minh (app) MB Bank dành cho toàn bộ các khách hàng cá nhân, giúp khách hàng tham gia vào các chuỗi liên kết, thực hiện được nhiều giao dịch khác nhau thông qua app MB Bank. Thậm chí, công cụ còn giúp tiến hành tính toán, phân tích tài chính để tư vấn cho khách hàng.
Đề cập đến vấn đề niêm yết cổ phiếu của các ngân hàng trên thị trường chứng khoán (TTCK), ông Trần Đăng Phi, Phó Chánh Thanh tra, Cơ quan Thanh tra, giám sát Ngân hàng Nhà nước, cho biết đã có chỉ đạo cụ thể. Hiện phần lớn ngân hàng đã thực hiện niêm yết, một số khác đang hoàn thiện yêu cầu, quy định của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN).
Đề án của NHNN cũng có lộ trình để giúp các ngân hàng có thời gian khắc phục các khó khăn hiện hữu, đặc biệt về vấn đề sở hữu. Từ nay đến năm 2021 sẽ có một số ngân hàng niêm yết, còn lại một số ngân hàng thực sự khó khăn thì NHNN sẽ có lộ trình cụ thể.
Trước những câu hỏi của bạn đọc, khách tham dự gửi đến diễn đàn về trường hợp bất khả kháng, Luật sư Trương Thanh Đức của Công ty Luật Basico, dẫn chứng theo quy định của Bộ Luật Dân sự, bất khả kháng là trường hợp khách quan, không lường trước được. Theo ông Đức, Covid-19 là trường hợp bất khả kháng.
Trong trường hợp này, nếu không thể phân loại vào trường hợp bất khả kháng thì các bên có thể ngồi lại bàn luận để thay đổi hợp đồng. Nếu không thể thì sẽ ra toà giải quyết, để toà ra phát quyết bắt buộc phải thay đổi. Nếu không sẽ tuyên hợp đồng là vô hiệu.
Luật sư Trương Thanh Đức nhấn mạnh, bất khả kháng trong trường hợp khi không thực hiện được sẽ được xem xét. Nhưng quan trọng trong hợp đồng tín dụng thì nghĩa vụ thanh toán, trả nợ phải thanh toán đến cùng. Nghĩa vụ thanh toán không thể được coi là bất khả kháng, miễn trách nhiệm...
TS Cấn Văn Lực, Chuyên gia kinh tế trưởng ngân hàng BIDV bổ sung, trong trường hợp bất khả kháng chỉ có thể giãn hoãn nợ chứ không phải không trả nợ.
Đề cập đến giải pháp tăng vốn tại các ngân hàng, mối tương quan giữa tăng vốn và hỗ trợ xử lý nợ xấu sẽ được xử lý thế nào, TS Cấn Văn Lực, Chuyên gia kinh tế trưởng ngân hàng BIDV, kể lại câu chuyện nhiều doanh nghiệp tại Nghệ An mới đây đề xuất câu chuyện về giảm hay không giảm lãi suất và hỗ trợ hay không lãi suất cho vay hay không. Giảm thì không nhất thiết cần, lãi suất ko phải là rào cản do nhưng sức cầu tín dụng yếu.
Theo ông Lực, không nên so sánh lãi suất tại Việt Nam và thế giới. Lãi suất tại Việt Nam ở mức trung bình cao so với quốc tế và khu vực, chủ yếu do 4 nguyên nhân: (i) lạm phát còn cao (khoảng 4% so với thế giới khoảng 2%), (ii) rủi ro doanh nghiệp cao xếp hạng tín nhiệm BB - hạng đầu cơ, thì lãi suất 5-7% bằng USD và 15% bằng VND (theo yêu cầu của nhà đầu tư nước ngoài), (iii) chi phí giao dịch tại nền kinh tế của Việt Nam chính thức và không chính thức cao, và (iv) lãi suất đầu vào phải duy trì hấp dẫn để thu hút nguồn vốn cho hệ thống ngân hàng.
TS Cấn Văn Lực cho rằng Việt Nam nên cố gắng giữ mặt bằng lãi suất như thời gian vừa qua là thành công rồi vì khi nền kinh tế phục hồi thì nhu cầu tăng lên và lãi suất có thể tăng nhẹ trong thời gian tới.
Hỗ trợ lãi suất năm 2009 đã không thành công, cho vay đại trà đối với nền kinh tế, hệ thống ngân hàng vẫn phải xử lý những hệ lụy từ thời điểm đó. Lần này, giả sử có hỗ trợ thì cần có chọn lọc, không đại trà và tối đa một năm, thông qua những định chế tài chính đặc biệt để tinh gon.
Câu chuyên cấp vốn, tăng vốn, hệ thống ngân hàng luôn trong tình trạng thiếu vốn. Khi thực hiện theo Basel II thì ngân hàng phải tiếp tục phải tăng vốn, theo TT41 hệ số CAR rơi vào khoảng 9%, quốc tế 13-14%, nhưng cao quá cũng không phải tốt vì có thể lãng phí nguồn lực, nên duy trì một mức CAR ở mức vừa phải là hợp lý.
Tổng hòa các biện pháp khác nhau, việc phát hành trái phiếu để tăng vốn, tìm kiếm cổ đông chiến lược có thể được áp dụng. Nhà đầu tư quan tâm đến Việt Nam, nên ngân hang vẫn thu hút luồng vốn mua bán và sáp nhập (M&A). Nhìn chung, giá cổ phiếu ngân hàng tương đối hấp dẫn với nhà đầu tư chiến lược. Và theo ông Lực, cần sự vào cuộc mạnh mẽ hơn của bộ, ban, ngành cùng NHNN và điều này rất quan trọng.
Một trong những vấn đề được các khách tham dự diễn đàn quan tâm là việc có cần một lộ trình hình thành mua bán nợ nói chung hay thì trường mua bán nợ xấu nói riêng tại Việt Nam?
Theo TS Cấn Văn Lực, Chuyên gia kinh tế trưởng ngân hàng BIDV, về giải pháp xử lý, cần luật hóa Nghị quyết số 42 trở thành một bộ luật xử lý nợ xấu để đảm bảo tính nhất quán và đồng bộ, đặc biệt là tính cưỡng chế, cùng sự vào cuộc của nhiều cơ quan để bộ luật có tính mạnh mẽ hơn.
Thành thị trường mua bán nợ thì không mới, do các ngân hàng và VAMC hay DATC đã mua bán nợ với nhau. Nhưng Việt Nam chưa có thị trường chính thống, mà chỉ có một số tổ chức tham gia vào nên chúng ta cần có thị trường mua bán nợ theo đúng nghĩa. Bộ Tài chính làm hơi chậm trong vấn đề này khi đã có quy định trong Nghị định 69 yêu cầu bộ nghiên cứu và thành lập thị trường mua bán nợ, cả nợ tốt và nợ xấu, chạy trên giao dịch điện tử chứ không phải một cái chợ hay siêu thị.
Một thị trường nợ sẽ tăng tính thanh khoản của thị trường mua bán nợ, và sau đó là hỗ trợ thị trường trái phiếu phát triển.
Ông Lực cho rằng một thị trường mua bán nợ sẽ giúp thu hút nhiều nhà đầu tư cùng tham gia, cả trong và ngoài nước, khi nhiều nhà đâu tư muốn mua nợ nhưng không biết chỗ. Một thị trường mua bán nợ như vậy sẽ cung cấp thông tin công khai minh bạch cho các nhà đầu tư.
11 giờ 30: Kết thúc
Ông Trần Minh Hùng, Tổng biên tập nhóm Thời báo Kinh tế Sài Gòn, cho biết sau ba giờ thảo luận, nhiều câu chuyện, đề xuất chuyên sâu đã được đại diện Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng thương mại và chuyên gia nêu ra.
Ông Hùng gửi lời cảm ơn trân trọng đến Ngân hàng Nhà nước, các nhà tài trợ, chuyên gia, quý độc giả đã dành thời gian tham dự và đóng góp những ý kiến, đề xuất giá trị cho diễn đàn, và xin hẹn gặp lại độc giả, những người quan tâm đến hoạt động tài chính - ngân hàng ở những sự kiện tiếp theo của nhóm báo.
Covid Covid-19 Hiệp hội Kinh tế Nghị định Nhật Bản Thủ tướng Top 10 Trung ương USD Việt Nam Việt nam chiến lược doanh nghiệp du lịch dịch vụ khủng hoảng kiến nghị sản xuất tiết kiệm trực tuyến tập trung đầu tư